GOOGLE.COM: Thi sĩ/Tác giả Lê Ngọc Hồ (1938-2012): Quốc-Nam, người Việt đồng cảm với dòng thi ca thế giới.

Rất vui khi được thi sĩ Quốc Nam cho biết sẽ ra cuốn sách nhan đề “Quốc Nam qua nét nhìn của 300 nhân vật và độc giả”. Vui mừng vì từ trước đến nay tôi rất trân quý thơ văn, như Henri Michaux đã viết: “Thơ là một quà tặng của Trời Đất, một hồng ân không phải bỏ công sức ra làm là được. Chỉ tham vọng làm một bài thơ, đủ giết chết thơ” (La poésie est un cadeau de la nature, une grâce, pas un travail. La seule ambition de faire un poème suffit à le tuer.)
Từ ngày ra hải ngoại, tôi rất vui khi thấy bất cứ 1 đặc san, 1 cuốn sách thơ văn hay biên khảo nào, tôi tự nhủ thầm : Quý hóa quá, vườn văn hóa của mẹ Việt Nam sẽ có thêm 1 bông hoa nữa, cho dù nhỏ bé cũng đủ tô thêm, làm triển nở và phong phú thêm. Huống chi ở đây cuốn sách dầy khoảng 1000 trang, bìa cứng, in mỹ thuật. Làm công tác văn học Việt Nam ở hải ngoại, thật là một hy sinh, nhiều phần là làm cho không, biếu không, trừ vài trường hợp đặc biệt. Tiền cũng không, mà danh cũng không. Bởi thời gian eo hẹp, không gian rộng lớn, độc giả giới hạn (hầu như ở tuổi trung niên) mà độc giả còn phải “kéo cày” cho căn nhà, cái xe. Chiến sĩ văn hóa đôi khi chỉ là chiến sĩ vô danh. Tiếng thơ, lời văn bị ném vào không gian đen vô tận (black hole). Thế nên có người đã nói theo cụ Nguyễn Khuyến:
“Viết đưa ai, ai “thích” mà đưa”
Thế nhưng thi sĩ Quốc Nam đã say mê làm công tác văn học không ngừng nghỉ từ tháng 5 năm 1975 đến nay: Chủ bút bán tuần san Tre Xanh (Hong Kong) từ tháng 5/75; tiếp tục thực hiện bản tin T.M.N. News (từ 9/1975); Từ 8/1976 – Chủ bút báo Hoài Hương và Đông Phương, Cơ Sở Văn Hóa Đông Phương, Giám đốc Saigon Radio, Sáng lập Giải Quốc Tế Tượng VàngVN, Khu vườn văn hóa Việt Nam, Quốc Tế Đại Hội Văn Hóa VN mừng Thế Kỷ XXI, Đại Hội Văn Chương Phụ Nữ VN Toàn Cầu, Đại Hội Áo Dài Quê Hương, vân vân và v.v… (Quốc Nam, Người Tình Quê Hương, “NTQH” trang 108-109).
Tác giả Quốc Nam làm thơ từ năm 12 tuổi (QN, Quê Hương Nước Mắt trang 105). Ngay cả thời vàng son nổi tiếng nhất văn học Trung Hoa đời Đường, với 2200 thi sĩ, chỉ có một số rất ít làm thơ khi tuổi còn non như Quyền Đức Dư 4 tuổi, Lạc Tân Vương 7 tuổi, Lý Bạch 7 tuổi mới biết nói và cũng biết làm thơ ngay, Hoàng Phủ Nhiễm 10 tuổi… Còn những vị khác thì lớn hơn hay trưởng thành mới làm thơ, có khi trọng tuổi mới làm thơ, như Cao Thích 50 tuổi mới làm thơ. Tác giả Quốc Nam in thơ rất sớm, tuổi mới chưa đầy 24 đã in tập thơ đầu tay. Ông viết rất nhanh và rất mạnh, liên tiếp 4 năm in 4 tập thơ và 2 tập truyện (QN-NTQH trang 109). Ngay đến văn hào William Shakespiere chỉ trong thời kỳ từ 1601-1608, thời kỳ sáng tác mạnh nhất và nhanh nhất là mỗi năm viết một vở kịch.
Ngoài ra, thơ của thi sĩ Quốc Nam có nhiều đặc nết:
- Thi vị hóa địa danh.- Như Louis Aragon đã nói:
“Nghệ thuật làm thơ là phép luyện kim hóa ra vàng, biến đổi những thứ tầm thường thành tốt đẹp.” (L’art des vers est l’alchimie qui transforme en beauté les faiblesses).
Ai từng qua San Jose, thấy những đồi trọc đôi khi có những khóm hoa popy vàng, một cảnh cũng có thể thấy ở nơi khác. Từ khi tác giả đặt cho mỹ-danh là “Thung Lũng Hoa Vàng” thì thi vị làm sao và lãng mạn làm sao. Washington State một tiểu bang mưa nhiều nắng ít, thông xanh um tùm được mệnh danh là xanh hoài ngàn năm, tác giả gọi là “Cao Nguyên Tình Xanh” vừa thi vị vừa lãng mạn, vừa có ý nghĩa. Vì thành phố Ngọc Bích được mang danh tên của Chief Seattle, có thể là một nhà môi sinh đầu tiên của Mỹ Châu nói riêng và thế giới nói chung, và là một triết gia đã từng viết thư cho Tổng Thống Mỹ kết án người da trắng phá hoại môi sinh. Chief Seattle nói những bông hoa rừng là anh em của dân tộc chúng tôi… Cao Nguyên Tình Xanh là xanh tình người, tình thiên nhiên, một tình yêu màu xanh, một hòa bình màu xanh. Nếu tác giả Quốc Nam không gọi Portland là Hồng Hoa Phố thì đến 90% đã quên đi thành phố nầy có vườn hoa hồng nổi tiếng trên thế giới.

- Lời kêu gọi
Trở lại quê hương làm lịch sử:
Thức dậy đi hỡi óc tim biển cả,
Tuổi trẻ ơi những biểu tượng cuối cùng
Là niềm tin của giòng giống Tiên Rồng
Hãy trở lại quê hương làm lịch sử.
(QN, QHNM tr. 16)
Cũng giống như thi hào Victor Hugo trong bài Nhiệm vụ của nhà thơ (Fonction du poète) trong đó có câu:
Dân ta ơi! Hãy nghe lời thi nhân,
Hãy nghe lời người ước mơ thánh thiện.
(Peuples! Écoutez le poète
Écoutez le rêveur sacré!)
Đúng như câu của Blaise Cendrars:
Nhà thơ là lương tâm của thời đại mình
(Le poète est la conscience de son époque)
- Tình hoài hương
Khoảng hơn 800 năm trước công nguyên, thi hào Homer với hai thiên anh hùng ca Iliad và Odyssey, qua nhân vật Odysseus nói:
“Không có gì thuyết phục được tim tôi, không có chi ngọt ngào êm dịu bằng quê cha đất tổ với những người thân yêu. Dù nơi đất khách, người ta có được sống trong nhà vàng, điện ngọc chăng nữa”
(But in my heart I never gave consent. Where shall a man find sweetness to surpass his own home and his parents? In far lands he shall not, though he find a house of gold)
Muôn vàn thi nhân và thi ca từng nói về tình hoài hương.
Như Lamartine trong Nostalgie và biết bao thơ Việt, thơ Đường… Gần đây nhà thơ Quang Dũng:
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt,
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì.
Nên chi Quốc Nam đã từng viết:
“Tâm tư chùng lắng mỗi hoàng hôn,
Ta mơ một sớm về quê mẹ.
Quên những đêm dài lệ héo hon”
(QN, QHNM tr. 51)
Cũng cùng ý với nhà thơ Quốc Nam, thi sĩ Jorge Luis Borges nổi tiếng của văn chương Mỹ Châu Latin trong Nghệ Thuật Thi Ca (Art of Poetry) có viết:
“Để nói lên rằng dù Ulysse (Odyssues) có mòn mỏi trông đợi, nhưng thấy được quê hương sau bao thập niên xa cách, vẫn trào dâng lệ cảm khi thấy Đất Mẹ Ithaca.” (They say Ulysse, wearied of wonders, wept with love on seeing Ithaca.)
Tình hoài hương dâng cao độ của thi sĩ Quốc Nam, nên mặc dù sống ở Mỹ (trong khi người dân Á Phi đã coi là Thiên đàng, là vùng trời mơ ước) cũng chỉ là cuộc sống lưu đày đối với anh:
Ta lưu đày một trời giẫy chết
(QN, QHNM tr. 16)
Cũng giống như Bạch Cư Dị viết Tầm Dương là đất trích… Thì Quốc Nam cũng cho rằng:
Hoa Kỳ đất trích, gối sầu hôm mai.
- Tình gia đình
Rất nhiều Thi văn sĩ toàn cầu đã viết về tình gia đình. Thi hào Tagore người được giải văn chương Nobel, có một truyện ngắn rất cảm động về tình cha con: Kabuliwallah. Văn hào Anton Chekhov với truyện Oyters, văn hào Hemingway với truyện A Day’s wait, thi sĩ Sultan Walad (con của thi hào Rumi thế kỷ 13) của vùng Cận Đông… một bài thơ về cha mình. Thời đại chúng ta ở Việt Nam có nhà thơ Quang Dũng:
Mẹ tôi, em có gặp đâu không?
Bao xác già nua ngập cánh đồng.
Tôi cũng có thằng con bé dại,
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông.
Nữ sĩ Sappho có những câu thơ tuyệt vời về con gái của nàng:
“Tôi có người con gái đẹp tuyệt vời, con yêu Cleis của tôi, toàn vàng như bông hoa…”
(I have a beautiful daughter, golden like a flower, my beloved Cleis…)
Cũng như thi sĩ Quốc Nam có người con gái yêu thương ra đi khi mới nửa chừng xuân, thi sĩ Anh Ben Johnson (1573-1637) có người con trai yêu dấu ra đi khi tròn 7 tuổi:
“Cho con trai đầu của tôi
Giã từ con yêu của tôi
Lỗi tôi quá hy vọng vào con, hỡi con yêu
Bảy năm trời con sống cùng cha
Và cha đã trả con cho số mạng
Con ra đi chính ngày sinh nhật thứ bảy của con”
(On my first son)
Farewell, thou child of may right hand; and joy;
My son was too much hope of thee, loved boy.
Seven years thou were lent to me, and I thee pay,
Exacted by thy fate, on the just day).
*Child of my right hand Benjamin, the child’s name, means this in Hebrew
Cũng vậy, thi sĩ Quốc Nam từng viết về gia đình, về cha, mẹ, chị và nhất là ba người con của ông.
“Con ra đời giữa tháng tư tưởng niệm”
(QN, QHNM tr. 64)
Hay
“Sao Bố không bỏ làm báo đi? Làm báo như Bố đâu có tiền…”
(QN, QHNM tr. 42)
Và cho người con gái yêu dấu:
“Ly Ly, rồi con sẽ lớn khôn. Con là nguồn hy vọng rất xanh của Bố và Mẹ.”
(QN, QHNM tr. 28)
Và những vần thơ cho người con gái thân thương của ông:
“Bố thương yêu con gái,
Đặt tên một loài hoa:
Thủy Tiên, bố gọi mãi,
Huyền sử quê hương ta”
(QN, NTQH tr. 64)
- Tình Yêu
Trong khía cạnh tình yêu, thi sĩ Quốc Nam đã coi Người-Tình-trăm-năm như Quê Hương nghìn trùng xa cách. Những vần thơ tình của Quốc Nam có lẽ cũng đồng cảm với dòng thi ca thế giới…

Từ khi có loài người là có Tình Yêu, nên chi thi sĩ Martin Buxbaum có câu:
“When Adam found himself
In the Garden of Eden
He asked
<Why, oh, Lord, am I here?>
And when he saw a woman
He knew
(Khi Adam thấy mình trong vườn Địa Đàng
Adam hỏi:
Và khi Adam thấy người đàn bà (Eve)
Adam hiểu liền.)
* Ngay trong Cựu Ước, thiên Diễm Tình Ca có những lời tình tứ tuyệt diệu:
Nàng:
Hôn em đi, hôn nữa đi anh
Tình anh ngọt nhiều hơn rượu vang
Tên anh đậm ướt hương nồng ngát
Gái đào tơ khao khát yêu chàng.
(Sách Salomon)
1.1 The superlative song, which is Solomon
1.2 May he kiss me with the kisses of his mouth for your expressions of endearment are better than wine.
1.3 For fragrance your oils are good.
-. Like an oil that is poured out is your name
-. That is why maidens themselves have loved you.)
(Holy Scriptures, The song of Solomon, 1, 1-3 p.769).
* Ca dao Việt Nam
Có những câu đơn sơ, chân thành, không thiếu sâu sắc mặn mà duyên dáng:
Sao mai ba cái nằm ngang,
Thương em từ thuở mẹ mang trong lòng.
Hay
Thương em từ từ thuở mẹ về cùng cha.
Hoặc
Nước chảy re re, con cá he nó xòe đuôi phụng,
Anh xa em rồi trong bụng còn thương.
* Kinh thi Trung Hoa
Một thứ ca dao của Trung Hoa có câu:
Líu lo đôi chim oanh
Bên cồn cát ven sông
Nàng, ngoan hiền duyên dáng
Chàng, anh tài ước mong.
(Oan oan thư cưu
Tại hà chi châu
Yểu điệu thục nữ
Quân tử hảo cầu)
* Sappho
Nữ thi sĩ Sappho của thế kỷ 6 trước công nguyên có những vần thơ yêu say đắm hay gợi cảm về dấu ấn sau cuộc truy hoan lần đầu của cô dâu:
“Như trái táo chín mọng đỏ trên cành cao, trên cành cao nhất mà kẻ hái không nhận thấy, hơn nữa khi nhận thấy cũng không với tới để ngắt trái
Như dạ hương lan (hyacinth) triền đồi, người chăn cừu bước qua, dẫm chân lên hoa tím nhạt”
(Like the sweet apple turning red on the branch top, on the top of the topmost branch , and the gatherers did not notice it, rather, they did notice, but could not reach up to take it.
Like the hyacinth in the hills which the shepherd people step on, trampling into the ground the flower in its purple). Translated by Richmond Lattimore.
(Bernard Knox, Classical Literature, p. 230)
* Chang Chi Kin
Nhà thơ Trung Hoa với bài
“Canh thức chờ trăng
Người yêu tôi, biết tôi chờ.
Trăng khuya hẹn đến, trăng mơ ánh vàng
Ánh trăng mơn trớn thân nàng
Cách xa dịu bớt, mơ màng gần nhau.”
(Watching the moon
My beloved knows
That I watch thee, O moon
And when thy beams caress her,
Our separation is less cruel)
Translated by Gertrude L. Joerissen
* Ronsard
Nhà thơ Pháp Ronsard đã kêu mời người yêu
“Em yêu dấu! Hãy nhìn bông hồng đỏ thắm!”
(Mignonne! Allons voir si la rose!)
* Thi hào Shakespeare
– Roméo and Juliet
“Roméo – Tạm biệt! Tạm biệt em! Hôn em rồi anh xuống (chàng leo xuống)
Juliet – Anh đi thiệt sao, người chủ yêu của em, người chồng yêu của em?”
(Roméo – Farewell, farewell! One kiss, and I’ll descend (he goes down)
Juliet – Art thou gone so, love – lord, husband friend?).
– As you like it
Shakespear viết trong vai Rasalind
(Nói với Oliver và Celia)
“Chàng và nàng tình tim trong tim:
(To Oliver and Celia)
You and you are heart in heart
– A Midsummer Night’s Dream
Trong vở kịch này thi hào Shakespeare đã dùng nhân cách (chàng thì thầm) Em và anh.
Và nếu không nhiều hơn
chỉ có em và anh
Cái chi săn sóc em hay anh”
(You, love, and I,
[He whispers]
You and I,
And if no more than only you and I
What care you or I?)
* Robert Frost (1874-1963)
“Chàng ước mong, tim nàng trong hộp vàng,
Được gài lại bằng một hàng kim bạc”
(And whished her heart in a case of gold
And pinned with a silver pin)
* Những câu thơ tình trong sáng
Có những câu thơ tình Anh Ngữ trong sáng, đơn sơ nhưng sâu sắc như ca dao VN. Đây là vài câu:
The moon is light
The sky is blue
Here I am
Where are you?”
(Trăng sáng
Trời xanh
Em đây
Anh ở đâu?)
Cũng như câu:
“Come live with me, and be my lover”
(Đến sống với anh, và là người yêu của anh)
Mấy câu thơ này dùng yêu vận (vần lưng) giống như lục bát VN.
Light-sky
Live-me-be
* Boris Pasternak
Văn, thi sĩ người Nga trong tác phẩm Bác sĩ Zhivago có những bài thơ tình cho người yêu Lara. Trong bài thơ Hẹn em có những câu:
“Anh mang trong ngực muôn đời.
Dáng em yêu dấu tuyệt vời dấu in.
Cho dù thế giới không tim,
Yêu nhau luôn mãi chúng mình, niềm tin”
* Catullus (-84 trước Công nguyên – 54 B.C.)
Thi sĩ sống ở La Mã (Rome) có những vần thơ yêu cháy bỏng:
“Hãy cho anh một ngàn nụ hôn, rồi một trăm lại một ngàn nụ hôn nữa, thêm một trăm thêm nữa một ngàn không ngưng nghỉ…)
(Give me a thousand kisses, then a hundred, another thousand next, another hundred, a thousand without pause…).
Thi sĩ khát tình như cát sa mạc gần Cyrena khát nước mưa trời.
* Thi sĩ Virgin (70-19 B.C. trước Công nguyên)
Thi sĩ La Mã Virgil trong trường thi Aeneid tả nữ hoàng Dido say mê, si tình. Thi sĩ cực tả sự đau khổ của nàng giống như bão tố làm gãy đổ cây sồi già.
“Giông gió đã cắt đổ gốc sồi già mạnh mẽ và thân cây bị gãy đổ…”
(To tear away an oak tree hale with age. The wind and tree cry, and the buffeted trunk…)
“Tâm trí nàng bị xé rách vì đau khổ tột cùng,
Dido mắc điên cuồng dữ dội muốn chết”
(So broken in mind by suffering, Dido caught her fatal madness and resolved to die)
* Thi sĩ La Mã Propertius (50 B.C.-16B.C.)
Trong bài thơ thứ 16 của cuốn thơ thứ 3 (Books III) thi sĩ có câu thơ:
“Midnight, and a letter comes to me from our mistress
Telling me to come to Tibur, at once!”
(Nửa đêm nhận được thư nàng,
Hẹn nhau gặp mặt bên sông Tibur)
Rồi thi sĩ kể ra những lý do chính đáng chàng không thể không theo lời nàng: như sợ nàng khóc, nàng giận dỗi cả năm trường, không ai có thể cho người tình lý tưởng buồn, thật tình tứ cùng nàng dưới ánh trăng ngà với con chó xinh của nàng. Ai mà có thể từ chối một biến cố tình cảm lãng mạn, tay trong tay với người yêu đẹp như nàng Vệ nữ. Hơn nữa dù thi sĩ có bị kẻ côn đồ hay kẻ tình địch đập chết. Nàng sẽ mang hương hoa ra mộ phần chàng………
* Thơ tình đau khổ vì quá yêu, quá ghen
Nữ sĩ Sappho đã viết:
– “Trái tim trong lồng ngực tôi chấn động
Tiếng nói tắt lịm
Tôi không thể thốt một lời”
(My breast all the heart is shaken…
The voice die
I can say nothing)
– Nữ sĩ nhớ người yêu Anaktoria, mà nữ sĩ yêu biết bao nhiêu đã ra đi.
“Nhớ Anaktoria, người yêu đã xa ta rồi”
(Remembering Anaktoria who has gone from me)
– Hay nữ sĩ quá đau khổ vì yêu, vì ghen
“…sét đánh bên tai tôi”
(…my ears are muted in thunder)
Hoặc tả những cảm xúc quá mạnh đến thi nhân:
“Tôi cảm thấy tôi đổi khác, tôi cảm thấy sự chết đến gần mình”
(I can feel that I have changed, I fell that death has come near me)
* Thơ tình thần tượng hóa người yêu đẹp nhất trên đời
Thi hào Shakespeare có viết nhiều bài thơ thể Sonnet hàng trăm, hàng ngàn, trong đó có những bài cực tả người yêu.
“Đôi mắt nàng sáng rực như mặt trời,
Môi nàng thắm hơn màu sơn đỏ thắm”
(My mistress’eyes are nothing like the sun. Coral is far more red than her lips’red)
…
“Tôi mê tiếng nói của nàng
Nhạc âm nào giống giọng vàng lời hoa”
(I love to hear her speak, yet will I know
That music hath a far more pleasant sound)
* Tình thơ trong văn chương VN
Xưa:
– Chinh phụ ngâm Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Ích (?).
Nỗi nhớ thương cao chất ngất của chinh phụ tiễn chồng ra trận:
“Đưa chàng lòng rười rượi buồn.
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.
Nước có chảy mà phiền khôn rửa,
Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây,
Nhủ rời tay lại cầm tay.
Bước đi một bước giây giây lại dừng”
– Truyện Kiều của Nguyễn Du
– Đại thi hào Nguyễn Du tả nỗi nhớ nhung của chàng Kim bằng những lời thơ tuyệt đẹp, trau chuốt đầy mỹ cảm:
“… Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.
Sầu đong càng lắc (hay khắc) càng đầy,
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê.
… Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng.
… Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan.
… Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình”
– Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu
Qua nét bút chân thành, đơn sơ và hấp dẫn, cụ Nguyễn Đình Chiểu tả cảnh Nguyệt Nga vấn vương Vân Tiên:
“Nguyệt Nga than thở “tình ôi là tình”
… Chữ ân chưa trả, chữ tình lại vương.
Nặng nề hai chữ uyên ương,
Dây sầu ai khéo vấn vương vào lòng”
Nay.
Thơ tình hiện đại rất phong phú không sao đếm được như sao trên trời. Dù sao cũng xin trưng một vài bài thơ tình điển hình của thời đại:
- Hữu Loan với Màu tím hoa sim
“Yêu nàng như tình yêu em gái
… Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được nhìn nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa một mình đèn khuya bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
Ngày xưa…
Hữu Loan khóc Lê Đỗ Thị Ninh như Lamartine khóc Elvire. Elvire chỉ là người tình của Lamartine mà thi sĩ khóc thương đau đến thế, còn Elvire VN Lê Đỗ Thị Ninh vừa là em gái, vừa là người tình, người vợ trẻ mới cưới của nhà thơ Hữu Loan. Lời thơ khóc thương đau chất ngất, thấm thía biển sầu, nỗi nhớ băng sơn trùng trùng điệp điệp.
- Quang Dũng
Nhà thơ Quang Dũng có những câu thơ tình với nỗi nhớ mênh mang, nỗi buồn vời vợi, nhẹ như sương và dễ thương như tơ:
“Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai?
Sông xa từng lớp lớp mưa dài
Mắt kia em có sầu cô quạnh
Khi chớm heo về một sớm mai.
… Thoáng hiện em về trong đáy cốc
Nói cười như chuyện một đêm mơ”
- Quốc Nam:
Thi sĩ cũng bị cuốn hút trong dòng thơ tình bất tận của muôn xưa và muôn sau đã sáng tác rất nhiều thơ tình:
“Với nhau, yêu dấu ạ,
Tình yêu ta thăng hoa.
Bờ môi nào buông thả,
Bàn tay nào giao thoa”
Hoặc
“Nhớ em ngàn năm réo gọi,
Tình yêu như thuở đầu đời.
Gối chăn đếm sầu vời vợi,
Quanh mình chỉ bóng đêm rơi”
(QN, NTQH, tr. 61 & 62)
Khi con người còn trái tim thì còn thơ tình. Có người thắc mắc thời đại nguyên tử, tin học, toàn khoa học thì sao? Thưa ngôn từ có thể khác, nhưng tình-tim vẫn vậy. Nên chi có những thơ tình toán học, tin học … Như:
Email một lá tình thư,
@ địa chỉ đợi chờ reply.
… Computer good, sao hoài bặt tin.
Hay Tình Thơ chàng nàng trong giờ khoa Vật lý:
“Em liếc anh tốc độ tối đa,
Đôi luồng nhỡn tuyến chợt giao thoa.
Bàng hoàng sóng điện vào vô cực,
Quĩ đạo tinh cầu lại lướt qua”.
v.v. và v.v…
Khoảng 2000 năm trước, thi sĩ Ovid của La Mã đã viết Nghệ thuât tình yêu (The Art of Love Book I, Book II, Book III) thì 2000 năm sau cũng có những văn thi sĩ hay nhà khảo cứu cũng sẽ viết Art of Love… Tình yêu sẽ bất diệt và sẽ còn mãi mãi khi còn loài người có trái tim.
Nói về đặc nết của thi sĩ Quốc Nam thì còn nhiều, nhưng nhiều quý vị đã nói hết rồi, nên tôi chỉ xin lướt qua. Ngoài ra, thi sĩ Quốc Nam cũng có những nét tương đồng với các thi sĩ khác. Thi sĩ Alfred de Vigny là sĩ quan của đội pháo thủ nhung phục đỏ, trong khi đó thi sĩ Quốc Nam sinh viên sĩ quan võ bị với alfa đỏ. Thi sĩ nổi danh Robert Frost, người đọc thơ mình trong ngày Tổng Thống Kennedy tuyên thệ nhậm chức, là một nhà báo thanh niên rất đẹp trai; thi sĩ Quốc Nam cũng vậy, một chủ báo, chủ bút đẹp trai và hăng say…
Từ ngày ra hải ngoại, thi sĩ Quốc Nam xuất bản đầu tiên “Quê Hương Nước Mắt” (1987). Thật là Quê Hương của chúng ta đã tràn ngập máu, mồ hôi và nước mắt lên từng tấc đất từ Bắc chí Nam. Không tràn ngập nước mắt sao được khi triệu nhà cửa bị tang hoang, mấy triệu dân và quân hai miền tưới máu , hàng triệu dân quân thương tích hay phế tật, và số bom đạn vùi dập mảnh đất bé nhỏ của quê ta nhiều hơn bom đạn thời Đệ Nhị Thế Chiến. Cha phải xa con, vợ phải lìa chồng, mẹ già mòn mỏi chờ những đứa con đã phơi thây chiến địa. Bao mái tóc xanh quấn vành khăn trắng, bao lệ đổ trên má chinh phụ vừa cưới nhau đã xa chồng, bao lệ khô trên má nhăn nheo của mẹ già chiếc bóng, bao ngơ ngác trẻ thơ mồ côi… bao con mắt lạc thần của người quả phụ v.v…và v.v… Rồi thì hàng nửa triệu người vượt biên chết trên biển cả, trong rừng rú biên cương. Biết bao nạn nhân của hải tặc bị cướp bóc, bị giết, bị hãm hiếp, bị lính Thái Lan bắn khi đã tới bờ… Bao phụ nữ bị mua làm nô lệ tình dục… làm đầy tớ không công… Có còn nước mắt nào cho quê hương quăn quại khổ đau của chúng ta, nên chi thi sĩ Quốc Nam đã viết:
“Quê hương gấm vóc đã ngập đầy nước mắt và đau thương chất ngất”.
(QN, QHNM tr. 12)
Và những bài thơ đầy thương cảm như “Vành khăn tang cho Quê Hương, Bảy năm tang quê…”. Tư tưởng của ông trùng hợp với tư tưởng của các thi văn sĩ toàn cầu.
Alfred de Vigny đã viết:
“Tôi yêu mến sự cao cả của nỗi đau của nhân loại.” (J’aime la majesté des souffrances)
Voltaire cũng cùng ý ấy:
“Loaị thơ vĩ đại luôn chú tâm sự bất hủ hóa những thống khổ của nhân sinh.” (La grand poésie s’occupera toujours d’éternisser les malheurs des homes.)
Rồi tiếp đến, thi sĩ xuất bản tập Người tình Quê Hương lần đầu vào năm 1999, rồi tái bản những lần kế tiếp. Cũng có thể là ông đã nhân cách hóa Quê Hương thành Người Tình.
“Em, tình yêu nào lớn
Bằng Quê Hương Tự Dân”
(QN, NTQH tr. 76)
Cũng có thể là Quê Hương là nơi sinh ra những người tình của ông:
“Kỷ niệm đầu trên ghi dấu xanh,
Anh theo tiếng gọi nhân tình.
Mắt em thăm thẳm mùa xuân thánh”
(QN, NTQH tr. 72)
Hay
“…anh đã gặp em, một người thiếu phụ duyên dáng và tâm hồn ngát một màu thơ…”.
(QN, NTQH tr. 14)
Cũng như ông, Lamartine với nàng Elvire tạo nên bài thơ Le Lac. Nhà thơ nổi tiếng của Mỹ Châu La Tinh Pablo Neruda với những bài Body of a woman, So that you will hear me, … hay Here I love you. Hay nữ sĩ Yosna Akiko của Nhật Bản thế kỷ 20, có những bài thơ tình yêu tuyệt vời như Black Hair, Amidst the note…
Tựa đề của hai tập thơ ông đã dùng những từ rất thân thương, rất gợi cảm, rất hấp dẫn, rất tình cảm: Quê Hương – Nước mắt – Người tình – Quê Hương, đã tạo một văn ảnh đầy xúc động: Người Yêu tôi khóc thì trời long, đất lở, tinh tú quay cuồng, nhịp tim nổi loạn…
***
“Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu” (Lý Bạch)
(Trước mắt phong cảnh tuyệt đẹp mà không tả được,
Vì thơ của Thôi Hiệu đã đề trên đầu rồi)
Lý Bạch là nhà thơ vĩ đại của thời Thịnh Đường ngang tài với nhà thơ Thôi Hiệu, mà còn không dám đề thơ ở Lầu Hoàng Hạc. Huống chi trước tôi đã có 100 vị trưởng thượng uyên bác viết về nhà thơ Quốc Nam và tác phẩm của ông. Bao nhiêu lời hay, ý đẹp đã viết cả rồi, tôi đâu còn chi để viết. Nhưng với tình thi văn hữu cả 1/3 thế kỷ chẳng thể nói không, nên cũng phải nói theo Nguyễn Du:
“Cũng liều nhắm mắt, đưa “tay”.
Tất cả như 1 bức tường cẩm thạch đã xây xong, thôi thì chỉ còn cách tìm một kẽ hở nào (cho dù nhỏ bé) để chen chân. Chẳng dám theo xa lộ văn chương mà các bậc đi trước, đành tìm lối khác nhưng gập ghềnh khúc khuỷu. Xin độc giả thông cảm cho, nói theo kiểu Ngô Thời Nhậm:
“Gặp” hoàn cảnh” thế thời phải thế”.
Hơn nữa vốn trân quý thơ, như nhà đại bút thời Đường Trần Tử Ngang đã nói: “Văn chương là tấc lòng gửi vào thiên cổ, đâu phải chuyện tài hoa phấn sức một thời”. Trong thời Đường, vì trang trọng bảo vệ thơ của mình, có người đã mất mạng vì không chịu nhường thơ của mình cho kẻ quyền thế, hay không lập được sự nghiệp công danh như Ôn Đình Quân không chịu để Tể tướng Lệnh Hồ Miến đứng tên tác phẩm từ Bồ Tát Man của mình, nên bị dìm không được tiến thân và còn bị đánh gẫy răng nữa. Như vậy thơ quan trọng hơn mạng sống, hơn công danh sự nghiệp. Tư tưởng Đông và Tây đã gặp nhau khi Voltaire nói:
“Thơ là hùng biện du dương”.
(La poésie est l’eloquence harmonieuse).
Và thi sĩ Alfred de Vigny cũng viết:
“Thơ là sự Đẹp tuyệt vời của sự vật, và sự chiêm ngưỡng cái Đẹp ấy trong lý tưởng”.
(La poésie est Beauté suprême des choses et contemplation idéale de cette Beauté).
Thơ đẹp lắm, Thơ quý lắm, Thơ là một cõi riêng có khi tách rời khỏi tác giả. Như nữ thi sĩ Sappho của thế kỷ 8 trước Công nguyên, mặc dù nữ sĩ mắc “đồng tính luyến ái” nhưng thơ nữ sĩ hay tuyệt vời cho dù đã trải hơn hai ngàn năm qua, vật liệu ghi thơ đã mục nát, có những câu thơ thiếu trước hụt sau, mà người ta vẫn ghi và in lại như câu:
…
On you… dressed in her peasant garb…
Và thi sĩ Nguyên Chẩn, người cấu kết với hoạn-quan đương triều mong được trọng dụng, để có chức tước trong triều. Thiên hạ coi thường tư cách ông, nhưng vẫn trọng thơ ông vì hay quá. Người ta không quên được những lời thơ của ông khi viết về Lý Bạch bị giáng:
“…Tin ông bị giáng Cửu giang lúc này
Đang đau gần chết, ngồi ngay,
Gió ùa đêm tối mưa bay vào phòng”
Ông cùng thời với thi hào Lý Bạch vào thế kỷ 8 sau Công nguyên.

Tóm lại, nàng “Thơ” đẹp lắm, nàng Thơ ơi! Vì thơ đáng yêu, đáng quý, đáng trọng lắm trên cõi trần gian. Vì Charles Henri Ford có viết:
“Thơ cũng là ông Trời vậy”
(Poetry is also God)
Và Pablo Neruda trong The Nobel Adresse nói rằng:
“Chúng tôi đã tìm thấy trong cuộc hành trình đường trường này thang thuốc thần để làm thơ. Tôi tin tưởng thi ca thật vô cùng trọng thể và là hành động bất chợt của nỗi cô đơn, tình hiệp nhất, giòng cảm xúc của thế giới tư nhân và sự tiết lộ bí mật của thiên nhiên được phân phối đồng đều”.
Xin cám ơn 2 tác phẩm “Quê Hương Nước Mắt và Người Tình Quê Hương” của thi sĩ Quốc Nam nói riêng, và tất cả các tập thơ, văn, biên khảo… của tất cả các tác giả nói chung, vì vườn hoa thi văn của Mẹ Việt Nam tại hải ngoại đầy hoa thơm, cỏ lạ, hương sắc ngạt ngào.
(Trích Mạng Lớn GOOGLE.COM ngày 18/3/2023)
LÊ NGỌC HỒ
(RIP 1938-2012)